Một vài điểm mới của luật hôn nhân gia đình
Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khóa XIII, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 06 năm 2014, có hiệu
lực thi hành tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. có một vài quy định mới
và có một vài sửa đổi, bổ sung so với Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Cụ thể
là:
Về độ tuổi đăng ký kết hôn .
Theo khoản 1, Điều 8 thì đã nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi và đủ 20 tuổi đối với nam (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn với là nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi).
Về hôn nhân đồng giới: Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định cấm đăng ký kết hôn đồng giới; Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa một vài người cùng giới tính” thay thế bằng việc Nhà nước “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Do vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể đăng ký kết hôn tuy thế sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có phát sinh tranh chấp. Có thể nói rằng, đây là sự nhìn nhận mới về hôn nhân giữa những người đồng giới tính của Nhà nước ta trong thực trạng xã hội hiện nay.
Về áp dụng tập quán: Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Trong trường hợp luật pháp không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”, Như vậy, luật đã quy định rõ tập quán chỉ được áp dụng trong trường hợp luật pháp không có quy định và các bên không có thỏa thuận thế nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm những điều cấm của Luật. (Điều 6 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, một số phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với một số nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy" .
Về luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã chính thức thừa nhận, cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo được quy định từ Điều 93 đến Điều 98. Một vài chủ thể tham gia phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ một vài điều kiện: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, với quy định này đã phản ánh được tình hình hiện giờ, và đáp ứng với tình hình phát triển thực tế của các mối quan hệ trong hôn nhân và gia đình.
Về chế độ tài sản của vợ chồng: Được quy định ở Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (từ Điều 47, 48, 49, 50 và Điều 59). ngoài chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định, Luật còn quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Việc thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực và nội dung thỏa thuận cũng có thể thay đổi sau khi đăng ký kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng, chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn một vài tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập đến, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, việc thỏa thuận được lập bằng văn bản có công chứng hay chứng thực trước khi kết hôn sẽ làm giảm sự tranh chấp chia tài sản sau ly hôn của một số cặp vợ chồng khi làm thủ tục ly hôn, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết vụ việc hôn nhân, gia đình.
Bên cạnh đó, luật quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, một vài thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung và một vài tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ hay chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trong trừ trường hợp vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nhiều nghĩa vụ chung của vợ chồng. Luật cũng quy định rõ, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Đặc biệt, điểm mới trong luật sửa đổi lần này là một vài quy định về giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, quy định rõ công việc nội trợ và một vài công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập.
Để được hướng dẫn hãy liên lạc tới Hotline 0903 481 181
Về độ tuổi đăng ký kết hôn .
Theo khoản 1, Điều 8 thì đã nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi và đủ 20 tuổi đối với nam (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn với là nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi).
Về hôn nhân đồng giới: Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định cấm đăng ký kết hôn đồng giới; Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa một vài người cùng giới tính” thay thế bằng việc Nhà nước “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Do vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể đăng ký kết hôn tuy thế sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có phát sinh tranh chấp. Có thể nói rằng, đây là sự nhìn nhận mới về hôn nhân giữa những người đồng giới tính của Nhà nước ta trong thực trạng xã hội hiện nay.
Về áp dụng tập quán: Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Trong trường hợp luật pháp không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”, Như vậy, luật đã quy định rõ tập quán chỉ được áp dụng trong trường hợp luật pháp không có quy định và các bên không có thỏa thuận thế nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm những điều cấm của Luật. (Điều 6 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, một số phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với một số nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy" .
Về luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã chính thức thừa nhận, cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo được quy định từ Điều 93 đến Điều 98. Một vài chủ thể tham gia phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ một vài điều kiện: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, với quy định này đã phản ánh được tình hình hiện giờ, và đáp ứng với tình hình phát triển thực tế của các mối quan hệ trong hôn nhân và gia đình.
Về chế độ tài sản của vợ chồng: Được quy định ở Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (từ Điều 47, 48, 49, 50 và Điều 59). ngoài chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định, Luật còn quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Việc thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực và nội dung thỏa thuận cũng có thể thay đổi sau khi đăng ký kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng, chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn một vài tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập đến, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, việc thỏa thuận được lập bằng văn bản có công chứng hay chứng thực trước khi kết hôn sẽ làm giảm sự tranh chấp chia tài sản sau ly hôn của một số cặp vợ chồng khi làm thủ tục ly hôn, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết vụ việc hôn nhân, gia đình.
Bên cạnh đó, luật quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, một vài thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung và một vài tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ hay chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trong trừ trường hợp vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng, cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nhiều nghĩa vụ chung của vợ chồng. Luật cũng quy định rõ, trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Đặc biệt, điểm mới trong luật sửa đổi lần này là một vài quy định về giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, quy định rõ công việc nội trợ và một vài công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập.
Để được hướng dẫn hãy liên lạc tới Hotline 0903 481 181
Bài liên quan
Giới thiệu về tôi
Lưu trữ Blog
-
▼
2016
(34)
-
▼
tháng 3
(7)
- Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
- Báo động tình trạng cô dâu Việt bỏ xứ người
- Hình phạt ngoại tình sẽ khó được thực thi
- Một vài điểm mới của luật hôn nhân gia đình
- Oceanlaw tư vấn chia tài sản khi ly hôn
- Có được ly hôn khi chồng đang ở nước ngoài?
- Ngoại tình có thể bị phạt tù tới 3 năm khi dẫn tới...
-
▼
tháng 3
(7)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét