Home
» Chia tài sản sau ly hôn
» Giấy chứng nhận quyền sử hữ đứng tên một người có phải là tài sản chung của vợ chồng?
Giấy chứng nhận quyền sử hữ đứng tên một người có phải là tài sản chung của vợ chồng?
Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015
Giấy chứng nhận quyền sử hữu đứng tên một người có phải là tài sản chung của vợ chồng? là điều mà rất nhiều các cặp vợ chồng quan tâm. Bởi họ không biết rõ quy định của pháp luật về trường hợp này nên họ hoang mang lo lắng khi trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ đứng tên một người thì tài sản đó được coi là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân hay là tài sản chung của vợ chồng và khi làm thủ tục ly hôn đơn phương hay đồng thuận thì chia tài sản như thế nào?
Chính vì thế mà bạn nên quan tâm và tìm hiểu các quy định của pháp luật về tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định tài sản chung của vợ chồng như sau:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận được xem là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ /chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận
Để bảo vệ quyền và lợi chính đáng của hai bên thì trong trường hợp tài sản do vợ/ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì chỉ ghi tên của vợ /chồng, nếu không có tranh chấp gì thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Nếu xảy ra tranh chấp là tài sản riêng, thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh tài sản được tạo dựng từ nguồn tài sản riêng hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản được hình thành từ nguồn tài sản riêng .
Do đó, với trường hợp vợ /hoặc chồng đứng tên riêng trên giấy chứng nhận sở hữu tài sản không thể hiện việc tài sản thuộc sở hữu riêng của người đó. Việc xác định tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng hay tài sản chung của vợ chồng không phải căn cứ người thực hiện giao dịch hay người đứng tên trên các giấy tờ mà phải căn cứ nguồn gốc tạo dựng tài sản đó. Tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, chỉ đứng tên một người , người đó không chứng minh được tài sản riêng như tặng cho riêng, thừa kế riêng, hình thành từ nguồn tài sản riêng… thì vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng, khi ly hôn về nguyên tắc sẽ được chia đôi có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên.
Nếu tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân tức do người đó dùng tiền riêng của mình mua, giấy tờ về tài sản đứng tên riêng của người đó dù giấy tờ về tài sản được cấp trong thời ký hôn nhân thì được quyết định là tài sản riêng chứ không phải tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp chia tài sản sau ly hôn . Người vợ hoặc chồng chỉ được tính phần tài sản chung trong việc cơi nới, xây dựng thêm…đối với tài sản đó.
Chính vì thế mà bạn nên quan tâm và tìm hiểu các quy định của pháp luật về tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định tài sản chung của vợ chồng như sau:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận được xem là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ /chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận
Tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân |
Do đó, với trường hợp vợ /hoặc chồng đứng tên riêng trên giấy chứng nhận sở hữu tài sản không thể hiện việc tài sản thuộc sở hữu riêng của người đó. Việc xác định tài sản có trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng hay tài sản chung của vợ chồng không phải căn cứ người thực hiện giao dịch hay người đứng tên trên các giấy tờ mà phải căn cứ nguồn gốc tạo dựng tài sản đó. Tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, chỉ đứng tên một người , người đó không chứng minh được tài sản riêng như tặng cho riêng, thừa kế riêng, hình thành từ nguồn tài sản riêng… thì vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng, khi ly hôn về nguyên tắc sẽ được chia đôi có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên.
Nếu tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân tức do người đó dùng tiền riêng của mình mua, giấy tờ về tài sản đứng tên riêng của người đó dù giấy tờ về tài sản được cấp trong thời ký hôn nhân thì được quyết định là tài sản riêng chứ không phải tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp chia tài sản sau ly hôn . Người vợ hoặc chồng chỉ được tính phần tài sản chung trong việc cơi nới, xây dựng thêm…đối với tài sản đó.
Bài liên quan
Giới thiệu về tôi
Lưu trữ Blog
-
▼
2015
(85)
-
▼
tháng 8
(13)
- Khi nào thì mẹ không được quyền nuôi con?
- Con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn quyền nuôi con t...
- Quy định của pháp luật về chế độ tài sản riêng của...
- Có được cấp lại giấy đăng ký kết hôn bị mất?
- Giấy chứng nhận quyền sử hữ đứng tên một người có ...
- Theo pháp luật đăng ký kết hôn cần những giấy tờ gì?
- Cách viết đơn xin ly hôn thuận tình theo quy định ...
- Luật chia tài sản khi ly hôn được quy định như thế...
- Thủ tục kết hôn với người Nhật Như thế nào
- Bi kịch từ đơn ly hôn viết tay
- Hình thức đơn xin ly hôn nào được pháp luật công nhận
- Mặt hạn chế của việc đăng ký kết hôn với người nướ...
- Những điều cần thiết cho cuộc hôn nhân hạnh phúc
-
▼
tháng 8
(13)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét