Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn như thế nào?
Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016
Sau khi lấy nhau, bố mẹ chồng bà Ngô tặng vợ chồng bà một mảnh đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chồng bà. Bà và chồng có 2 con chung, một con đã có gia đình và ở riêng, 1 con hiện đang chung sống cùng vợ chồng bà. Vậy, nếu vợ chồng bà ly hôn thì tài sản nhà đất được chia như thế nào?
Nguyên tắc phân chia tài sản khi ly hôn
Theo quy định, vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn do 2 người thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của người đó.
Việc phân chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Tài sản chung của 2 người về nguyên tắc được phân chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi người, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của từng người vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được xem như lao động có thu nhập.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các người có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
- Tài sản chung của vợ chồng được phân chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, người nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được nhận thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Tòa án nhân dân xử lý.
Trường hợp trên, khi sự việc đúng như bà trình bày là sau khi đăng ký kết hôn, bố mẹ chồng của bà tặng cho chung vợ chồng bà một khu đất, mặc dù vậy chỉ đăng ký đứng tên chồng bà trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. khi việc đăng ký đó tiến hành trước ngày 18/10/2001, mà vợ chồng không yêu cầu cấp lại để đứng tên cả vợ chồng, thì khu đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng chung của vợ chồng.
Khi li dị, khi có tranh giành là tài sản riêng thì người chồng có tên trong giấy chứng nhận phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hay tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng. Khi người chồng không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng, thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó có quyền sử dụng đất ở, sở hữu nhà ở khi ly hôn thực hiện theo nguyên tắc phân chia mặc dù thế có xem xét hoàn cảnh của mỗi người, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.
Nếu người chồng có chứng cứ hợp pháp chứng minh được quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở mà ông đứng tên trong giấy chứng nhận là tài sản riêng, thì khi li dị quyền sử dụng đất, sở hữu nhà đó thuộc về người chồng. Theo Điều 99 Luật HNGĐ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của người chồng đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của người chồng, nhưng phải thanh toán cho người vợ một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà.
Khi li dị, khi hai người không thỏa thuận được việc chia tài sản, yêu cầu TAND xử lý thì mỗi bên cần giao nộp cho Tòa án nhân dân chứng cứ chứng minh về tài sản chung, tài sản riêng. TAND sẽ đánh giá chứng cứ để phân phân chia theo quy định của luật pháp.
Để được tư vấn cụ thể và chi tiết hãy gọi điện tới Hotline 0965 15 13 11
Nguyên tắc phân chia tài sản khi ly hôn
Theo quy định, vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn do 2 người thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của người đó.
Việc phân chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Tài sản chung của 2 người về nguyên tắc được phân chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi người, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của từng người vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được xem như lao động có thu nhập.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các người có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
- Tài sản chung của vợ chồng được phân chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, người nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được nhận thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Tòa án nhân dân xử lý.
Trường hợp trên, khi sự việc đúng như bà trình bày là sau khi đăng ký kết hôn, bố mẹ chồng của bà tặng cho chung vợ chồng bà một khu đất, mặc dù vậy chỉ đăng ký đứng tên chồng bà trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. khi việc đăng ký đó tiến hành trước ngày 18/10/2001, mà vợ chồng không yêu cầu cấp lại để đứng tên cả vợ chồng, thì khu đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng chung của vợ chồng.
Khi li dị, khi có tranh giành là tài sản riêng thì người chồng có tên trong giấy chứng nhận phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hay tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng. Khi người chồng không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng, thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó có quyền sử dụng đất ở, sở hữu nhà ở khi ly hôn thực hiện theo nguyên tắc phân chia mặc dù thế có xem xét hoàn cảnh của mỗi người, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.
Nếu người chồng có chứng cứ hợp pháp chứng minh được quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở mà ông đứng tên trong giấy chứng nhận là tài sản riêng, thì khi li dị quyền sử dụng đất, sở hữu nhà đó thuộc về người chồng. Theo Điều 99 Luật HNGĐ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của người chồng đã được đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của người chồng, nhưng phải thanh toán cho người vợ một phần giá trị nhà, căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà.
Khi li dị, khi hai người không thỏa thuận được việc chia tài sản, yêu cầu TAND xử lý thì mỗi bên cần giao nộp cho Tòa án nhân dân chứng cứ chứng minh về tài sản chung, tài sản riêng. TAND sẽ đánh giá chứng cứ để phân phân chia theo quy định của luật pháp.
Để được tư vấn cụ thể và chi tiết hãy gọi điện tới Hotline 0965 15 13 11
Bài liên quan
Giới thiệu về tôi
Lưu trữ Blog
-
▼
2016
(34)
-
▼
tháng 1
(19)
- Thủ tục ly hôn cần bao nhiêu thời gian
- Ly hôn với chồng mất tích bằng cách nào?
- Thủ tục hòa giải trước khi ly hôn
- Sửa giấy kết hôn được không?
- Khó khăn khi xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
- Khó khăn khi đăng ký kết hôn với người Lào
- Giấy tờ khi kết hôn với công dân nước ngoài
- Hỏi về địa chỉ khi đi đăng ký kết hôn?
- Thủ tục kết hôn với người nước ngoài sẽ dễ dàng hơn
- Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn như thế nào?
- Giải đáp vấn đề ly hôn
- Dịch vụ tư vấn ly hôn với người nước ngoài
- Dịch vụ tư vấn kết hôn của Oceanlaw
- Giải quyết ly hôn khi không đăng ký kết hôn
- Nhờ người mang thai hộ thế nào?
- Lập di chúc để lại tài sản
- Luật sư tư vấn hôn nhân có yếu tố nước ngoài
- Tư vấn ly hôn với người trung quốc
- Kết hôn với người Hàn phải phỏng vấn bằng tiếng Hàn?
-
▼
tháng 1
(19)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét